Lao động làm công ăn lương ở nước ta đang trong xu hướng phát triển, đặc biệt là phát triển trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Điều này đồng nghĩa với thị trường lao động ở nước ta cũng đang trong xu hướng phát triển. Bên cạnh xu hướng phát triển vừa nêu cần được quan tâm thì chủ trương kéo dài tuổi nghỉ hưu theo lộ trình ở nước ta cũng đang thu hút sự chú ý của dư luận. Nhân dịp số đặc biệt Mừng Xuân 2017, Mừng đất nước đổi mới, Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội trân trọng giới thiệu tới quý bạn đọc cuộc phỏng vấn Tiến sỹ Nguyễn Văn Thuật với chủ đề “Luận bàn về sự phát triển của lao động làm công ăn lương và chủ trương kéo dài tuổi nghỉ hưu ở nước ta”.
Góp phần lý giải nguyên nhân cán bộ, công chức nhà nước vô dụng hiện nay ở nước ta
Không định hướng đúng, sinh viên vẫn thất nghiệp
Cần chú trọng phát triển, giải quyết và tạo ra việc làm công ăn lương
Giai đoạn dân số vàng có thể bị bỏ lỡ
Dự báo được cầu lao động chỉ là “chuyện nhỏ”?
Nguồn cung lao động của Việt Nam lớn nhưng chất lượng lao động lại rất thấp
PV: Thưa Tiến sỹ, ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của lao động làm công ăn lương ở các nền kinh tế thị trường phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng?
TS. Nguyễn Văn Thuật: Đề cập đến lao động làm công ăn lương và sự phát triển của nó là một vấn đề khá vĩ mô, khá rộng lớn trong kinh tế thị trường. Bởi sự phát triển của lao động làm công ăn lương là một trong những nhân tố cơ bản có tác động tích cực vào cấu trúc kinh tế – xã hội nói chung và các quan hệ kinh tế – xã hội cơ bản của kinh tế thị trường nói riêng. Vì vậy, trong phạm vi của cuộc trao đổi này, tôi xin trả lời khái quát như sau:
Ở các nền kinh tế thị trường phát triển nói chung như Mỹ, Anh, Đức, Pháp,…,lao động làm công ăn lương chiếm dao động khoảng từ 80 – 90% lực lượng lao động. Có thể nói, tỷ lệ này là một chỉ báo quan trọng góp phần giúp cho việc nghiên cứu, phân tích để phản ánh và lý giải trình độ phát triển kinh tế – xã hội chung của mỗi quốc gia. Nói cách khác, sự phát triển của lao động làm công ăn lương là đòi hỏi tất yếu của kinh tế thị trường và sự phát triển của kinh tế thị trường chính là nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày một sâu rộng hơn của mỗi nền kinh tế trong bối cảnh mỗi quốc gia đều phải chủ động tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa. Xét cho cùng, có thể thấy, nếu không có sự phát triển của lao động làm công ăn lương trong từng thành phần kinh tế nói chung, đặc biệt là thành phần kinh tế ngoài nhà nước nói riêng thì sẽ không có sự phát triển của thị trường lao động một cách đầy đủ theo quy luật tất yếu của nó, cũng như các thị trường khác dựa trên sự phân công lao động xã hội khách quan và ngược lại.
Khi lao động làm công ăn lương trong một nền kinh tế chiếm phần lớn trong lực lượng lao động của nền kinh tế đó, nó cho thấy nền kinh tế đó, quốc gia đó có sự phát triển mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp, thông qua đó tạo ra được nhiều việc làm để cho người lao động có cơ hội lựa chọn và nâng cao thu nhập, đáp ứng được nhu cầu cơ bản của cung cầu lao động và tính khách quan, tính phù hợp trong phân công lao động, từ đó có tác động tích cực đến sự phát triển của các thị trường khác. Nói một cách tổng quát thì tính năng động và sự phát triển của lao động làm công ăn lương là một trong những nhân tố cơ bản tác động đến chính sách lao động tiền lương và chính sách phát triển kinh tế – xã hội khác trong một nền kinh tế thị trường dù là phát triển hay đang phát triển.
Về sự phát triển của lao động làm công ăn lương ở nước ta có thể nói như sau:
– Thời kỳ bao cấp: Lao động làm công ăn lương chủ yếu làm việc trong khu vực nhà nước và vì vậy, nội hàm của khái niệm lao động làm công ăn lương cũng đã không được hiểu đầy đủ như hiện nay vì khi đó nước ta không đi theo kinh tế thị trường.
– Thời kỳ đổi mới: Nước ta bắt đầu chuyển đổi sang và phát triển nền kinh tế thị trường từ năm 1986. Đây là một nội dung lớn và quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, nhờ đó các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ngày càng phát triển, đưa nền kinh tế của nước ta phát triển sâu rộng hơn, đời sống của các tầng lớp nhân dân cũng không ngừng được cải thiện, lao động trong các thành phần kinh tế cũng ngày một đa dạng và phát triển hơn.
Theo tính toán của tôi dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê, bình quân hàng năm lao động làm công ăn lương của nước ta tăng khoảng 660.000 người trong giai đoạn 2011-2015 và tăng chủ yếu ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Năm 2011, lao động làm công ăn lương của nước ta là khoảng 17.500.000 người, chiếm 34,6% lực lượng lao động có việc làm thì đến năm 2015, lao động làm công ăn lương ước tính đã tăng lên 20.800.000 người, chiếm 39,3% lực lượng lao động có việc làm. Riêng năm 2015 là năm có số lượng lao động làm công ăn lương tăng cao nhất so với các năm khác trong giai đoạn 2011-2015, do đó, đây cũng là năm mà nước ta đã giải quyết được nhiều việc làm nhất cho người lao động trong cùng giai đoạn vừa nêu. Điều cũng đáng chú ý nữa là lao động làm công ăn lương tuổi từ 60 trở lên năm 2015 chiếm 2,1% tổng số lao động làm công ăn lương của cả nước.
Về lao động trong khu vực kinh tế nhà nước (Lao động trong khu vực kinh tế nhà nước là lao động làm công ăn lương) trong giai đoạn 2011-2015 không có sự gia tăng về số lượng theo hướng năm sau cao hơn năm trước, cụ thể là năm 2011 có khoảng 5.250.000 người thì đến năm 2015 đã giảm xuống còn khoảng 5.185.000 người.
Về lao động trong khu vực doanh nghiệp (Lao động trong khu vực doanh nghiệp là lao động làm công ăn lương) trong giai đoạn 2011-2015 thì có sự gia tăng theo hướng năm sau cao hơn năm trước. Đây cũng là khu vực có lực lượng lao động làm công ăn lương chiếm khoảng 70% tổng số lao động làm công ăn lương của cả nước trong năm 2015.
Từ những điều nêu trên, có thể nói, sự phát triển của lao động làm công ăn lương của nước ta đang trong xu hướng phát triển được thể hiện bằng sự gia tăng hàng năm về số lượng và tỷ trọng trong lực lượng lao động có việc làm như tôi đã đề cập, còn về chất lượng thì thông qua tiêu chí trình độ học vấn và thể lực cũng ngày một cao hơn,… Nói cách khác, sự phát triển này là một thực tế không thể đảo ngược được trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế – xã hội của nước ta.
PV: Mới đây, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có Tờ trình Chính phủ về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật Lao động của nước ta. Trong đó, có chủ trương kéo dài tuổi nghỉ hưu theo lộ trình, xin ông cho biết quan điểm của ông về chủ trương này?
TS. Nguyễn Văn Thuật: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vừa có Tờ trình Chính phủ về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật Lao động. Trong đó, Bộ này đưa ra hai phương án tuổi nghỉ hưu: phương án 1 là giữ như hiện hành (nam 60 và nữ 55 tuổi) và phương án 2 là tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình kể từ ngày Bộ luật có hiệu lực (01/01/2018), tuổi nghỉ hưu của người lao động bình thường làm việc trong điều kiện lao động bình thường là nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi nhưng cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ 60 tuổi.
Đề xuất này đã và đang có không ít góc nhìn đa chiều từ cách tiếp cận ở các góc độ khác nhau của các chuyên gia nói riêng và ngay cả những người lao động làm công ăn lương như công nhân, công chức, viên chức nói chung. Phân tích lý do cho việc đồng tình hay không đồng tình về chủ trương này khi họ đưa ra thì đều có cơ sở nhất định. Có thể nói, chính vì lẽ đó mà 2 phương án về tuổi nghỉ hưu mới được đưa ra để xem xét.
Cũng cần phải nói thêm rằng, việc đề xuất kéo dài tuổi nghỉ hưu của nước ta đợt này không phải là lần đầu tiên mà trước đây chúng ta cũng đã đề xuất rồi nhưng Quốc hội không thông qua. Hơn nữa, tại Khoản 3 Điều 187 quy định về tuổi nghỉ hưu trong Luật Lao động hiện hành cũng cho phép người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người lao động làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 năm.
Quan điểm của tôi là nên giữ tuổi nghỉ hưu như hiện hành (phương án 1), còn tăng tuổi nghỉ hưu như đã nêu (phương án 2) là chưa phù hợp xét ở một số lĩnh vực kinh tế – xã hội và loại hình việc làm của người lao động làm công ăn lương, đặc biệt là xét theo trục phát triển của lao động làm công ăn lương trong điều kiện của nước ta từ nay đến tối thiểu là năm 2022. Vì vậy, ở đây tôi chỉ đề cập đến tính chưa phù hợp của chủ trương này khi soi xét vào trục phát triển chung của lao động làm công ăn lương ở nước ta được thể hiện ở 3 nhóm lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, lao động làm công ăn lương của nước ta dù đang trong giai đoạn phát triển nhưng vẫn còn chậm, ước tính chiếm gần 40% lực lượng lao động có việc làm hiện nay. Trong lực lượng lao động có việc làm thì phần lớn là lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật (ước tính chiếm gần 80% lao động có việc làm) và trong lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có việc làm thì cũng có không ít lao động có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học làm việc không đúng với chuyên môn mà họ đã được đào tạo do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Ngoài ra, ước tính cũng còn hàng trăm nghìn người lao động trẻ có trình độ đại học và sau đại học đang thất nghiệp.
Thứ hai, tình trạng người sử dụng lao động nói chung hay doanh nghiệp nói riêng lách luật, giao kết sai hợp đồng lao động còn diễn ra khá phổ biến không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động làm công ăn lương. Chẳng hạn như người lao động làm việc không có hợp đồng lao động, làm việc theo hợp đồng miệng trái với quy định, hoặc việc ký hợp đồng lao động xác định thời hạn nhiều hơn 2 lần liên tiếp hay việc ký hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, hoặc là thang bảng lương được xây dựng thành nhiều bậc, tách tiền lương thành nhiều khoản để trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,…. Những điều này ít nhiều làm cho hành lang pháp lý về lao động có tính hiệu lực và hiệu quả không cao, gây trở ngại cho trục phát triển của lao động làm công ăn lương và có ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống an sinh xã hội.
Thứ ba, ở các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Bỉ, Đan Mạch hay Xingapo thì tuổi nghỉ hưu đều được quy định cao hơn phương án tăng tuổi nghỉ hưu của nước ta nhưng lao động làm công ăn lương ở các nước này đều chiếm dao động từ khoảng 80 – 90% lực lượng lao động. Tuổi nghỉ hưu ở các nước phát triển cao hơn nước ta là nhằm tận dụng những mặt tích cực trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước nhưng có điểm chung là góp phần bù đắp thiếu hụt nhân lực và hạn chế nhập khẩu lao động từ các nước khác,….Trong khi dự báo đến năm 2022, lao động làm công ăn lương của nước ta cũng sẽ chỉ chiếm khoảng trên 47% lực lượng lao động có việc làm.
Trên cơ sở của 3 nhóm lý do nêu trên có thể kết luận chung như sau: Tăng tuổi nghỉ hưu đặt trong điều kiện, bối cảnh của trục phát triển của lao động làm công ăn lương của nước ta như đã nói trên thì nó cho thấy việc thực hiện này là chưa phù hợp, thậm chí thực hiện nó có thể gây trở ngại nhất định cho việc tận dụng thời kỳ dân số vàng của nước ta nói chung và sự phát triển của thị trường lao động nói riêng.
PV: Theo ông, nếu kéo dài tuổi nghỉ hưu đối với công chức, viên chức nhà nước thì sẽ có tác động như thế nào đến công tác tinh giản biên chế của nước ta?
TS. Nguyễn Văn Thuật: Tinh giản biên chế và kéo dài tuổi nghỉ hưu đối với công chức, viên chức nhà nước là hai vấn đề phức tạp. Như tôi đã nói, đề xuất kéo dài tuổi nghỉ hưu của nước ta là chưa phù hợp, trong đó đã hàm ý cả việc chưa nên kéo dài tuổi nghỉ hưu đối với công chức, viên chức nhà nước (nam 62, nữ 60 tuổi), mà theo tôi, chúng ta nên đẩy mạnh hơn nữa công tác tinh giản biên chế theo như Chỉ thị số 02/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 06 tháng 01 năm 2017 về việc đẩy mạnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế. Vì lý do cụ thể đó mà tôi không đề cập đến tác động của việc này đến việc kia hoặc hai vấn đề đó có mối quan hệ như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh nào.
Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm rất rõ ràng và xuyên suốt là xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có sức khỏe, phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn tốt để phục vụ nhân dân nói chung và kiến tạo thể chế, môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển nói riêng,…. Tuy nhiên, thời gian qua, dự luận đã đề cập đến một số hạn chế trong công tác tổ chức nhân sự ở bộ máy nhà nước. Đó là một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nhà nước “sáng cắp ô đi tối cắp về” dẫn đến hiện tượng người làm không hết việc, thậm chí phải làm ngoài giờ trong khi không ít người làm thì ít, chơi thì nhiều, đến tháng lĩnh lương,… Dù chưa có số liệu chính thức về công chức không làm được việc, nhưng nếu theo ước tính của các chuyên gia thì có tới 30% công chức không làm được việc, tương đương 700.000 người, tiêu tốn 17.000 tỷ đồng ngân sách nhà nước mỗi năm.
Nếu chúng ta đẩy mạnh tinh giản biên chế hiệu quả và kiên quyết hơn nữa việc đưa ra khỏi nền công vụ những cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng được yêu cầu công việc; đồng thời lấy và giữ được những cán bộ đáp ứng được và tốt yêu cầu công việc thì việc kéo dài tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước là chưa cần thiết để đảm bảo cho bộ máy nhà nước không phình lên mà vẫn đảm bảo được tiêu chí ngày càng tạo nhiều cơ hội hơn cho lao động trẻ, tri thức trẻ lựa chọn việc làm và được cống hiến, cũng như bảo đảm được mục tiêu trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo. Hơn nữa, cán bộ, công chức, viên chức làm được việc sẽ không gặp cản trở nào trong công việc từ chính những người “sáng cắp ô đi tối cắp về”.
Mặt khác, cũng cần phải nói thêm rằng việc kéo dài thời gian công tác, kéo dài tuổi nghỉ hưu trong các cơ quan nhà nước cũng đang được thực hiện rồi. Chẳng hạn như Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ cũng cho phép việc việc kéo dài thời gian công tác khi đủ tuổi nghỉ hưu dựa trên một số tiêu chí nhất định, hoặc Nghị định số 53/2015/NĐ-CP ngày 29 tháng 05 năm 2015 của Chính phủ quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức ở một số chức danh lãnh đạo nhất định.
PV: Xin chân thành cảm ơn ông!
(Theo Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội)